A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

NỒI GANG CỦA MẸ TRẦN THỊ ĐỈNH VÀ CÂU CHUYỆN VỀ GIA ĐÌNH CÓ 6 MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Vào một chiều tháng 5 năm 2007, các anh Ban Tuyên huấn, BCHQS Thừa Thiên Huế đưa chúng tôi đến thăm gia đình mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Đỉnh. Căn nhà đơn sơ, giản dị nằm khép mình trên đường Trần Phú, toát lên vẻ ấm cúng và thiêng liêng đến lạ. Những tấm bằng tổ quốc ghi công, các loại huân huy chương, bằng khen… được treo trang trọng kế nhau khắp xung quanh dường như minh chứng cho sự hiện diện của những con người anh hùng, trong một gia đình anh hùng.

Tiếp chúng tôi là ông Vương Hưng Mầu – 80 tuổi, trung tá công an đã nghỉ hưu. Đây là người con trai duy nhất trong 6 người con của mẹ Trần thị Đỉnh còn sống. Khi nói về mẹ, ông bồi hồi xúc động cầm chiếc nồi gang, kỉ vật duy nhất bà để lại, hồi tưởng những ngày tháng mẹ ông còng lưng tần tảo, chắt chiu để nuôi anh em ông khôn lớn, rồi cả 6 anh em đều tham gia cách mạng và 5 người đã hy sinh cho đất nước.

Thắp một nén hương trên bàn thờ, ông  kể cho chúng tôi nghe cặn kẽ và cũng không dấu nỗi tự hào về truyền thống gia đình mình:

Bố ông tên là Vương Hưng Phán, sinh ra, lớn lên ở vùng đất nghèo, đầy cát trắng và tràn gió biển, đó là vùng đất Phú Đa, huyện Phú Vang của tỉnh Thừa Thiên Huế, nơi được biết đến như cái nôi của phong trào đánh giặc trong tỉnh. Ngay từ đầu cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, bố ông là người đứng đầu của dòng họ Vương Hưng, từng theo học nho học, song ông Phán đã sớm giác ngộ cách mạng, đưa vợ là bà Trần thị Đỉnh, cùng các con tham gia kháng chiến và rồi cả ông và 6 người con đều là đảng viên cộng sản. Gia đình ông trở thành ngọn lửa kháng chiến soi sáng và lan tỏa khắp thôn Phú Đa.

Năm 1946 nhà ông là trụ sở của công an Tỉnh sau đó là nơi làm việc, họp mặt của các đồng chí lãnh đạo tỉnh Thừa Thiên, rồi trở thành xưởng dệt cung cấp vải cho cán bộ, bộ đội trong tỉnh.

Đầu năm 1957, nhiều cơ sở cách mạng của Thừa Thiên Huế bị lộ, đêm ngày quân giặc ngang nhiên bắt bớ, tra tấn dã man những người theo cách mạng. Gia đình ông bị chúng bao vây và truy bức ráo riết. Nhưng cả dòng họ không ai theo giặc, nghe theo lời dạy bảo của bố ông “Cả dòng họ ta không ai đi ngược dòng”. Tất cả đã bám trụ chiến đấu, phục vụ chiến đấu. Gia đình ông được xem là cơ sở đầu tiên và cuối cùng an toàn nhất của huyện Phú Vang. Vì vậy, đây được làm nơi đặt điểm hẹn, liên lạc của nhiều cán bộ trên về hoạt động và chỉ đạo phong trào kháng chiến ở địa phương và địa bàn này cũng là bàn đạp để quân ta tiến công vào thành phố Huế. Sau cuộc Tổng tiến công và nổi dậy tết Mậu Thân 1968, nhà ông là nơi đặt trạm phẩu thuật phía nam Thừa Thiên. Trong 3 năm (1968-1970), hàng trăm chiến sĩ giải phóng quân và du kích đã được cứu chữa tại đây trước khi về đơn vị chiến đầu hoặc chuyển về tuyến sau. Trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ, gia đình ba thế hệ của ông đã có nhiều người chiến đấu ngoan cường, anh dũng, bất khuất, lập nên nhiều chiến công vẻ vang, góp phần tô thắm truyền thống đấu tranh cách mạng của dân tộc Việt Nam, 24 người đã hy sinh, để lại dấu ấn không thể phai mờ trong tâm trí người dân Phú Đa. Với những thành tích và sự hy sinh to lớn đó, Nhà nước đã phong tặng gia tộc ông Vương Hưng Mầu 6 Bà Mẹ Việt Nam anh hùng và một Anh hùng lực lượng vụ trang nhân dân.

Mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Đỉnh (mẹ của ông Mầu) đã kiên quyết bám trụ mảnh đất quê hương, động viên con cháu cùng tham gia kháng chiến, mẹ đã nhiều năm liên tiếp che dấu nuôi nấng cán bộ cách mạng, người có chồng và 5 người con đã hy sinh vì sự nghiệp giải phóng của dân tộc. Người con cả của mẹ là ông Vương  Hưng Kháng làm Bí thư Đảng uỷ xã Phú Đa, huyện Phú Vang, bị giặc càn quét, hy sinh năm 1947. Người con thứ 2 là Vương Hưng Hạc, thương binh mất một chân vẫn âm thầm đi gây dựng cơ sở bí mật, khi bị địch bắt đã dùng gậy chống trả quyết liệt, bị chúng giết hại năm 1968. Chồng mẹ là ông Vương Hưng Phán đã ngã xuống tại vườn nhà năm 1969. Người con gái thứ 2 Vương Thị Lành hy sinh năm 1973, hai người con thứ 5, thứ 6 là Vương Hưng Tích, Vương Hưng Hạc đều hy sinh khi chiến đấu với địch. Ông Mầu kể: “Lúc bấy giờ gia đình tôi rất nghèo, khoai sắn cũng không đủ ăn, nói chi cơm gạo, nhưng mẹ tôi thường nhắc các con phải nhường cơm cho bộ đội, mẹ yêu quý, chăm sóc các anh chị bộ đội như con ruột của mình, sẵn sàng nhường hạt gạo cuối cùng để nấu cháo cho thương binh”.

Mẹ Việt Nam anh hùng Vương Thị Lành (người con gái thứ 2 của mẹ Đỉnh) cũng là một đảng viên kiên cường, hy sinh năm 1973 do bị đòn thù tra khảo. Năm 1955 khi ở lại hoạt động trong vùng kiểm soát gắt gao của địch bà vẫn bí mật cùng một số đồng chí thành lập tổ Đảng để hướng dẫn quần chúng đấu tranh với hành động tổ cộng, diệt cộng điên cuồng của địch, che dấu, bảo vệ cơ sở kháng chiến. Nhà bà Lành là nơi có hầm bí mật đầu tiên che dấu cán bộ cấp trên về phát triển cơ sở kháng chiến ở Phú Đa, chuẩn bị cho phong trào đồng khởi ở Phú Vang. Từ đó cơ sở Đảng được nhân rộng khắp vùng. Năm 1967 bà bị địch bắt do một tên phán bội khai báo, sau đó Bà bị địch đầy ra Côn Đảo giam cầm đầy đoạ cho đến kiệt sức . Hai người con của bà được bố trí vào biệt động  nội thành dưới vỏ bọc là thợ may và đã hy sinh trong chiến đấu. Cô con gái là Châu Thị Soa, cán bộ phụ nữ bí mật của xã, thay mẹ liên lạc, bảo vệ cán bộ nằm vùng. Phát hiện vai trò quan trọng của chị Soa, địch bắt tra tấn và giết hại. Như vậy, cả gia đình 5 người của mẹ anh hùng Vương Thị Lành đều hy sinh cho kháng chiến.

Bà Vương Thị Phi (em chồng mẹ Đỉnh) mẹ Việt Nam anh hùng có 8 liệt sĩ ( 3 người con, 1 cháu rể và 4 cháu ruột). Chiến công và sự hy sinh của những người con, người cháu bà Phi đã làm cho kẻ thù phải khiếp sợ, gây tiếng vang lớn trong đồng bào Phú Đa. Anh hùng LLVTND Trần Phong tham gia diệt hàng trăm tên lính Mỹ ở khách sạn Hương Giang nằm trong nội đô Huế.

Bà Trần Thị Lùng (con gái bà Vương Thị Phi) là mẹ Việt Nam anh hùng, cơ sở nuôi dấu cán bộ, có chồng và 2 con hy sinh. Đặc biệt cô con gái của mẹ Lùng là một chiến sĩ cực kỳ gan dạ và bất khuất. Trong một trận chống địch càn quét ở Phú Lương, Phú Vang, chị đã dũng cảm một mình chống lại quân bộ và trực thăng địch cho đến khi hết đạn. Địch đổ quân vây bắt, chị dùng báng súng chống trả quyết liệt và anh dũng hy sinh.

Mẹ Việt Nam anh hùng Phan Thị Vũ (con dâu của mẹ Đỉnh) cũng là một cơ sở nuôi dấu cán bộ, hết lòng vì chồng con trong cuộc chiến đấu chống giặc. Chồng hy sinh năm trước thì năm sau 3 người con trai của bà công tác ở Huyện uỷ Huyện đoàn Phú Vang đã hy sinh trên đường công tác.

Mẹ Việt Nam anh hùng Phạm Thị Thể (con dâu của mẹ Đỉnh – vợ của ông Mầu) về nhà chồng chưa đầy một năm, thì ông Vương Hưng Mầu, theo tiếng gọi của tổ quốc gia nhập đoàn quân nam tiến. Ông chiến đấu và làm nhiệm vụ bảo vệ Trung ương Cục Miền Nam rồi tập kết ra Bắc công tác cho đến năm 1968 trở lại miền Nam chiến đấu mới gặp lại bà ở căn cứ Thừa Thiên – Huế sau 24 năm xa cách. Xa chồng, theo gương gia đình, bà tham gia hoạt động phụ nữ xã, rồi liên xã. Khi cháu Vương Thị Sen, đứa con gái duy nhất của ông bà tròn 4 tuổi, bà phải ngậm ngùi gạt nước mắt giao con cho bà nội để rút vào hoạt động bí mật.

Hiệp định Giơ- ne- vơ được ký kết chưa ráo mực, bọn Mỹ – ngụy đã phá hoại hiệp định, ra sức truy lùng, bắt bớ cán bộ kháng chiến. Bà phải rời địa phương lên miền núi và được giao nhiệm vụ liên lạc, móc nối cán bộ, đảng viên phải sơ tán  đi các nơi nhằm xây dựng lại tổ chức. Năm 1957 trong một chuyến công tác về đồng bằng  phát triển cơ sở bà bị địch bắt vào nhà lao Thừa Phủ. Dù bị cực hình tra tấn song bà không chịu khuất phục chúng. Diệm, Nhu bị giết, bà được địch thả ra và phải chuyển về miền núi Phong Điền hoạt động cho đến ngày gặp lại ông, và tham gia công tác công an cho đến khi nghỉ hưu. Theo gương gia đình cháu Vương Thị Sen lớn lên tham gia du kích rồi được làm y tá, cháu đã hy sinh trên đường đi cấp cứu thương binh khi vừa tròn 20 tuổi và bà Thể nhận được tin con hy sinh sau 16 năm trời mẹ con ly biệt.

Kể đến đây ông Mầu rớm rớm nước mắt, bà Thể đưa cho ông chiếc khăn, chấm những giọt nước mắt lăn dài trên gò má gầy gò, hằn sâu những nỗi đau, ông nghẹn ngào nói “Ngày Bắc Nam sum họp cũng là ngày gia đình tôi có cùng một lúc 24 chiếc khăn tang của 24 liệt sỹ, chưa kể 4 mẹ anh hùng đã hy sinh, sau này nhà nước mới truy tặng”. Trong căn nhà 128B Trần Phú, thành phố Huế ông Mầu sống với vợ là mẹ Việt Nam anh hùng Phạm Thị Thể cùng người cháu nội gọi bằng chú thím để cho đỡ phần trống trải.

Khi được biết chúng tôi có mong muốn được có một hiện vật về mẹ Việt Nam anh hùng Trần Thị Đỉnh, ông Vương Hưng Mầu đã hiến tặng chiếc nồi gang một thời từng được mẹ sử dụng nấu cơm nuôi giấu cán bộ cách mạng trong những năm kháng chiến.

Chiếc nồi gang của mẹ Đỉnh được đưa về Bảo Tàng Quân khu 4 trưng  bày trang trọng tại phòng chuyên đề Mẹ Việt Nam anh hùng của Bảo Tàng, mong muốn gửi lại thông điệp cho các lớp con cháu hiểu về những chiến công của các anh hùng liệt sỹ, những hy sinh to lớn của các bà mẹ vì sự nghiệp giải phóng dân tộc. Góp phần giáo dục truyền thống, tình cảm cách mạng cho các thế hệ hôm nay và mai sau


Tổng số điểm của bài viết là: 11 trong 11 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

NỒI GANG CỦA MẸ TRẦN THỊ ĐỈNH VÀ CÂU CHUYỆN VỀ GIA ĐÌNH CÓ 6 MẸ VIỆT NAM ANH HÙNG

Hướng dẫn tới bảo tàng
  • Taxi

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Taxi 

  • Xe Bus

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe bus 

  • Xe Máy

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe máy

Thống kê
Lượt truy cập hiện tại : 0
Hôm nay : 18
Tháng 12 : 140