A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

SÚNG K50 CỦA LIỆT SĨ TRẦN DANH LƯ

Trong ký ức những chiến sĩ Trung đoàn 101 – Sư đoàn 325 và người dân Saravan – Lào, hình ảnh người chiến sĩ Trần Danh Lư hy sinh khi đang làm nhiệm vụ vẫn ôm chặt khẩu K50 nhằm thẳng hướng quân thù cho đến bây giờ và mãi sau này vẫn không phai mờ, như một biểu tượng của thời đại đấu tranh chống đế quốc, giải phóng hai dân tộc Việt – Lào. Đã gần 60 năm trôi qua, khẩu súng K50 của đồng chí Trần Danh Lư sử dụng chiến đấu vẫn được lưu giữ tại Bảo tàng Quân khu 4 minh chứng cho sự chiến đấu dũng cảm, hào hùng của những chiến sĩ quân tình nguyện Việt Nam và tình đoàn kết quốc tế trong sáng, sắt son Việt – Lào.

 

Sau thất bại trên tuyến phòng thủ biên giới Việt – Trung (Thu – Đông 1950), Pháp lâm vào tình thế khó khăn, mất quyền chủ động chiến lược trên chiến trường Đông Dương. Cũng nhân lúc Pháp thất bại ở biên giới, Mỹ tăng thêm viện trợ cho Pháp và can thiệp sâu hơn vào cuộc chiến tranh Đông Dương, nhằm thực hiện âm mưu ngăn chặn phong trào cộng sản lan tràn xuống miền Đông – Nam châu Á, sẵn sàng thay Pháp, tiếp tục chiến tranh xâm lược. Được Mỹ tiếp sức, Pháp chủ trương quyết giữ Đông Dương, ngày 6/12/1950, Chính phủ Pháp cử Đại tướng Đơlátđờ Tátxinhi – Tư lệnh lục quân khối Tây Âu, là viên tướng được đánh giá là tài ba bậc nhất của Pháp hồi đó sang làm Tổng chỉ huy quân viễn chinh ở Đông Dương.

Lúc này, đồng chí Trần Danh Lư chiến đấu trong đội hình Trung đoàn 101- Sư đoàn 325. (Trung đoàn 101, còn gọi là Trung đoàn Cao Vân, là trung đoàn bộ binh cơ động nằm trong đội hình của Sư đoàn 325 – Quân đoàn 2 – Sư đoàn Bình Trị Thiên. Thành lập ngày 5/9/1945 trên cơ sở từ đội du kích được ra đời trên mảnh đất Thừa Thiên-Huế). Cùng trong đội hình của Sư đoàn 325 còn có Trung đoàn 95 – Thiện Thuật (Quảng Trị); Trung đoàn 18 – Lê Trực (Quảng Bình) và Trung đoàn 84 pháo binh Gio Cam. Sư đoàn có nhiệm vụ chấn giữ địa bàn phía nam Quân khu 4, tham gia xây dựng tuyến đường Trường Sơn và chi viện cho cách mạng Lào.

Nhận nhiệm vụ giải phóng Áttôpơ, Bôlôven và Xaravan ở Hạ Lào, Trần Danh Lư cùng đơn vị nhanh chóng cơ động tiến xuống Hạ Lào. Và cũng trong giai đoạn vô cùng ác liệt của cách mạng Lào, trên khắp các mặt trận, anh đã cùng đơn vị chiến đấu và hy sinh, lập nên những chiến công hiển hách, giải phóng hoàn toàn Áttôpơ, Bôlôven và Xaravan năm 1954.

Từ tháng 10 năm 1953, các lực lượng Quân tình nguyện của ta phối hợp chặt chẽ với bạn Pha-thét Lào đã phát động toàn dân vùng giải phóng đấu tranh với mục đích bảo vệ vùng tự do, chống càn quét lấn chiếm đã giành được nhiều thắng lợi. Bộ Chỉ huy khu Hạ Lào đã huấn luyện các đơn vị tổ chức nắm tình hình địch, chuẩn bị lương thực, đạn dược, bảo đảm cho hoạt động Xuân – Hè 1954. Ngày 16 tháng 11 năm 1953, đồng chí Võ Nguyên Giáp gửi thư cho Ban cán sự Hạ Lào và Trung đoàn 101 nêu rõ yêu cầu phối hợp chiến trường Hạ Lào và Bắc Tây Nguyên. Từ đầu tháng 1 năm 1954, Trung đoàn 101 (thiếu) và Trung đoàn 66 của Sư đoàn 304 đã tiến công Trung Lào, giải phóng thị xã Thà Khẹt và phần lớn tỉnh Xavanakhẹt, dọc phía đông trục Quốc lộ 13.

Đầu năm 1954, theo kế hoạch do cơ quan tham mưu Hạ Lào vạch ra, mục tiêu tấn công vào thị xã, tiêu diệt tiểu khu Át-tô-pơ, giải phóng toàn tỉnh Át tô pơ. Đồng chí Trần Danh Lư cùng đơn vị vừa hành quân đến vừa nhanh chóng làm công tác tổ chức chiến đấu. Ngày 3 tháng 2 năm 1954, lực lượng của ta và bạn nổ súng tiến công vào trung tâm thị xã. Địch tháo chạy, ta truy kích tận chân núi Phu-luông (Cao nguyên Bô-lô-ven) và đã tiêu diệt phần lớn lực lượng địch. Toàn bộ hệ thống chiếm đóng của địch trên trục đường 16 dọc sông Mê Kông tháo chạy. Đến ngày 5 tháng 2 năm 1954, tỉnh Áttôpơ hoàn toàn giải phóng.

Thừa thắng, ta cùng lực lượng bạn tiếp tục tiến quân lên kế hoạch giải phóng Bôlôven và Xaravan. Trong một trận chống càn tại tỉnh Saravan, đồng chí Trần Danh Lư được giao nhiệm vụ giữ chốt đã cùng đơn vị dũng cảm đẩy lùi 5 đợt tấn công của địch. Trong lần chặn đánh đợt tiến công tiếp theo, Trần Danh Lư bị trúng đạn, dù bị thương nặng, máu mất rất nhiều nhưng anh vẫn xin được ở lại chiến đấu và anh dũng hy sinh trong tư thế tiến công địch. Trên tay anh, khẩu súng K50 vẫn nằm nguyên vẹn trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Thời gian sau đó, trên các chiến trường Trung Lào, Hạ Lào và Bắc Tây Nguyên liên tiếp báo tin thắng lợi, cổ vũ mạnh mẽ cho cách mạng 3 nước Đông Dương. Một tiểu đoàn của Trung đoàn 101 cùng các đơn vị quân tình nguyện ở Hạ Lào như Tiểu đoàn 200, Tiểu đoàn 49 và lực lượng bạn vừa làm nhiệm vụ phối hợp chiến đấu vừa giúp địa phương củng cố và giữ vững vùng giải phóng.

Cho đến bây giờ và mãi mãi sau này, hình ảnh người chiến sĩ Trần Danh Lư dù hy sinh nhưng tay vẫn nắm chắc khẩu súng sẵn sàng chờ địch vẫn toát lên sự hào hùng, bi tráng, trở thành hình tượng bất tử của người chiến sĩ tình nguyện Việt Nam, có sức sống mãnh liệt và lan tỏa rộng lớn, mang dấu ấn thời đại sâu sắc“Bởi Anh chết rồi, nhưng lòng dũng cảmVẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công”.


Tổng số điểm của bài viết là: 7 trong 7 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

SÚNG K50 CỦA LIỆT SĨ TRẦN DANH LƯ

Hướng dẫn tới bảo tàng
  • Taxi

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Taxi 

  • Xe Bus

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe bus 

  • Xe Máy

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe máy

Thống kê
Lượt truy cập hiện tại : 14
Hôm nay : 0
Tháng 06 : 398