TAY LÁI Ô TÔ CỦA NGƯỜI ANH HÙNG VẬN TẢI
Tháng 7/2008, gần một nghìn cựu thanh niên xung phong thời kỳ chống Mỹ vượt qua hàng trăm cây số từ mọi miền đất nước về hội ngộ ôn lại những kỷ niệm sâu sắc trên những cung đường mà năm xưa chính các anh, các chị trực tiếp xây dựng, bảo vệ, phục vụ hàng vạn lượt xe chi viện cho miền Nam. Trong dịp này, Bảo tàng Quân khu 4 vinh dự là một trong những điểm dừng chân của Đoàn cựu thanh niên xung phong tham quan, gặp mặt, ôn lại kỷ niệm về thời kỳ “tăng tấn lấn đường”, “Sống anh dũng bám cầu bám đường, chết kiên cường dũng cảm”. Một câu chuyện khiến mọi người xúc động và khâm phục khi được nghe Anh hùng lái xe vận tải Đoàn Minh Nguyệt đứng trước kỷ vật của mình là chiếc vô lăng xe tải kể về thời gian gắn bó với chiếc xe và con đường Trường Sơn huyền thoại từ những ngày đầu đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh ra miền Bắc đến ngày đất nước hoàn toàn giải phóng…
Anh hùng vận tải Đoàn Minh Nguyệt sinh năm 1941, dân tộc Kinh, quê ở xã Thọ Vinh, huyện Kim Thi, tỉnh Hưng Yên. Khi được tuyên dương anh hùng (25/8/1970), đồng chí là đảng viên, thượng sỹ, lái xe ô tô vận tải Binh trạm 1, Quân khu 4.
Năm 1964 đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh bằng không quân, hải quân mở rộng đánh phá miền Bắc. Nhiệm vụ đảm bảo an toàn thông suốt các tuyến đường vận chuyển chi viện hàng hoá vào miền Nam an toàn được Quân uỷ Trung ương, Bộ Quốc phòng giao cho lực lượng vận chuyển của Đoàn 559, đội vận tải của Quân khu 4, các binh trạm vận tải, lực lượng TNXP địa phương. Trước yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao chi viện miền Nam, hàng vạn thanh niên viết đơn tình nguyện xung phong phục vụ mở đường, làm nhiệm vụ vận chuyển hàng hoá. Trong hoàn cảnh ấy, người công nhân Đoàn Minh Nguyệt theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc viết đơn tình nguyện nhập ngũ. Năm 1964, anh được cử đi đào tạo lái xe ở trường lái Bộ Quốc Phòng, sau một năm miệt mài học tập, thuần thục tay lái, anh được điều vào “tuyến lửa”, gắn bó với các tuyến đường Trường Sơn huyền thoại.
Tháng 1 năm 1965 anh được biên chế vào Binh trạm 1, Quân khu 4. Nhận chiếc xe Gaz63, anh bắt đầu vận chuyển những chuyến hàng đầu tiên. Trên các cung đường vận tải của anh cùng đơn vị phải đi qua nhiều trọng điểm ác liệt như Truông Bồn, Ngã ba Đồng Lộc, Khe Giao, Tân Lập để tập kết hàng ở Quảng Bình. Có những chuyến vận chuyển hàng vượt “Cổng Trời” (Quảng Bình) chi viện cho chiến trường Lào. Mỗi lần xe đi qua các trọng điểm là mỗi lần anh phải căng lực, căng trí để tìm cách tránh né chạy đua với máy bay Mỹ. Từ năm 1965 đến năm 1969, hàng trăm lần xe anh bị máy bay Mỹ đuổi ném bom, bắn rốc két và cũng hàng nghìn lần xe anh qua bãi bom nổ chậm.
Năm 1967 xe anh qua đoạn cầu Om (Nhân Sơn – Đô Lương), một loạt 5 quả bom nổ chậm máy bay Mỹ vừa rải còn nguyên mùi khói khét lẹt nằm bên vệ đường, lòng đường chỉ vừa đủ cho chiếc xe Gaz của anh đi qua. Trong điều kiện thiếu lực lượng gạt bom thông đường mà yêu cầu nhiệm vụ phải kịp thời gian giao hàng, anh đã dũng cảm nhấn ga cho xe tăng tốc vượt qua trước khi bom kích nổ. Tháng 4/1965, đường qua phà Linh Cảm bị tắc sau 1 trận rải bom dữ dội của máy bay Mỹ, xe anh phải rẽ xuống đường 1 để qua phà Bến Thuỷ. Trong lúc đang đưa xe lên phà theo hướng dẫn của người lái phà, bất ngờ có còi báo động, 1 tốp máy bay từ hướng Đông nam lao vun vút trút bom vào bến phà. Những chiếc xe đã lên phà lắc mạnh và lửa bùng cháy. Nhiều người bị thương và hy sinh, pháo cao xạ và súng 14,5 ly, 12,7 ly từ các đơn vị trực chiến đạn nổ giòn giã, 1 máy bay AD6 Mĩ phải đền tội. Đoàn Minh Nguyệt và xe bị trúng loạt bom thứ 2, anh bị hất tung rơi xuống sông, cơ thể bị nhiều vết thương nhưng vẫn tỉnh táo để bám vào thành phà. Sau giây lát trấn tĩnh, anh hô mọi người khẩn trương dập tắt lửa cứu xe, cứu hàng. Những đám lửa cuối cùng được dập tắt thì anh kiệt sức ngất lịm, đồng đội đưa anh vào bệnh viện cấp cứu.
4 năm liên tục gắn bó với chiếc Gaz 63 anh đã vận chuyển được hàng ngàn tấn vũ khí, lương thực, hàng trăm chiến sĩ vào chiến trường. Hàng năm, Đoàn Minh Nguyệt thường đi trên 300 ngày, nhiều tháng đi 28, 29 ngày, có ngày anh ngồi trên xe liên tục 11, 12 tiếng đồng hồ. Xe anh trực tiếp lái đi trên 95.000 km an toàn, lượt vận chuyển trên 600 chuyến, chở 987 tấn hàng, 283 tấn vũ khí đến đích, bảo đảm giao đúng, đủ hàng, đúng thời gian quy định.
Cuối năm 1969, Đoàn Minh Nguyệt làm tiểu đội trưởng chỉ huy 3 chiếc Zin chở hàng và vũ khí sang chi viện cho chiến trường Lào. Thông thường mỗi chuyến hành quân chỉ kéo dài từ 5 đến 7 ngày trên cung đường khoảng 400 km, tập kết hàng ở Quảng Bình rồi quay ra, nếu phải vận chuyển hàng sang bạn Lào thì đi chung với đồng đội dưới sự chỉ huy của người khác. Nay nhận nhiệm vụ mới rất nặng nề, Đoàn Minh Nguyệt phải chỉ huy 3 chiếc xe có gần 15 tấn hàng vợt qua đường 20, tuyến đường “sinh tử” thường xuyên bị bom Mỹ đánh phá để sang chiến trường Nam Lào. Đúng như nhận định của tiểu đội trước khi hành quân, càng vào sâu chiến trường khó khăn gian khổ càng thấy rõ. Đường 20 nhiều đoạn bị bom Mỹ đánh sập toàn bộ cầu, mặt đường hố bom chồng lên hố bom, rải rácnhững quả bom chưa nổ, hai bên đèo cây rừng bị bom Mỹ xé nát thân cháy sém, đổ ngổn ngang ra lòng đường. Đoàn Minh Nguyệt liên lạc với lực lượng công binh, thanh niên xung phong cùng tiểu đội hạ cây rừng làm cầu, chống lầy, mở đường vòng tránh. Sau 2 tháng uống nước suối, ăn rau rừng vượt qua bao gian khổ ác liệt của bom đạn, của nắng mưa Trường Sơn, 3 chiếc xe vận tải của tiểu đội cũng đến Bộ chỉ huy mặt trận Nam Lào an toàn, bàn giao đầy đủ vũ khí, đạn dược. Tại buổi bàn giao tiểu đội được Bộ tư lệnh Mặt trận khen ngợi.
Đoàn Minh Nguyệt được tặng thưởng Huân chương chiến công hạng Nhất, vinh dự được Bác Hồ gắn huy hiệu của Người tại Đại hội điển hình lái xe miền Bắc năm 1968. Ngày 25/8/1970 đồng chí được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Hơn 40 năm đã trôi qua nhưng nhiều ký ức về những ngày tháng dầm mưa dãi nắng, chạy đua với thời gian và bom đạn quân thù trên tuyến đường Trường Sơn huyền thoại năm nào vẫn in đậm trong lòng người anh hùng vận tải Đoàn Minh Nguyệt. Tay lái ô tô Gaz63 hiện đang đợc trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4 là kỷ vật thiêng liêng của người chiến sỹ vận tải năm xưa.