THEO CHÂN ANH QUA TỪNG TRANG NHẬT KÝ
Cuốn nhật ký của liệt sỹ Đỗ Lương Bằng có số đăng ký BTQK4 445/GI17 đang được lưu giữ cẩn thận, trang trọng tại Bảo tàng Quân khu 4 như một minh chứng về thời kỳ hào hùng của quân và dân Khu 4. Ở đó, thấm đợm tình yêu thương đồng đội, đồng bào, tình yêu lứa đôi trong sáng, sắt son. Là khí phách hiên ngang của người chiến sĩ bảo vệ vùng trời Quân khu 4 trong những năm tháng kháng chiến chống Mỹ cứu nước oanh liệt, là máu và nước mắt…
Đỗ Lương Bằng tên khai sinh là Đỗ Văn Tinh, sinh ngày 08/10/1944 ở thôn Giáo Dục, xã Nghĩa Phú, huyện Hải Hưng, tỉnh Nam Định. Tháng 10/1963, anh xung phong nhập ngũ vào đơn vị bộ binh thuộc Đại đoàn 308. Ngày 11/02/1965, theo yêu cầu nhiệm vụ anh cùng đơn vị tập trung tại trường 400 Sơn Tây nhận vũ khí và học tập thao tác sử dụng pháo phòng không, sau đó lên đường cơ động và bảo vệ vùng trời Khu 4.
Năm 1964, không quân Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại miền Bắc, Đỗ Lương Bằng đã trải qua những ngày tháng chiến đấu vụ cựng vất vả, ỏc liệt, gian khổ nhưng cũng rất hào hùng và đẹp đẽ. Trong từng trang nhật ký của anh đã tái hiện lên trước mắt người đọc về những trận chiến hào hùng, oanh liệt và cuộc sống người lính gắn bó máu thịt với nhân dân trên mỗi bước đường chiến đấu ở địa bàn Quân khu 4. Ở đó thấm đượm tình cảm quân dân, tình đồng đội, tình yêu đôi lứa. Ở đó cũng là sự cảm thông chia sẻ khó khăn, là sự cưu mang che chở, là niềm tin tưởng lạc quan, là nỗi đau hy sinh, mất mát… Năm 1965, đơn vị Đỗ Lương Bằng được giao nhiệm vụ bảo vệ cầu Mỹ Đức (Lệ Thủy – Quảng Bình), giữ mạch máu trục đường 15A chiến lược. Tại đây, anh cùng đơn vị đã đánh thắng trận đầu, bắn rơi tại chỗ 1 máy bay F101. Anh bị một mảnh bom xé vào cánh tay trái, khẩu đội trưởng thấy máu ra nhiều bèn hạ lệnh cho anh rời khỏi vị trí để băng bó nhưng anh kiên quyết không rời khỏi mục tiêu: “Quân thù còn ở trước mặt, tôi chỉ bị thương nhẹ xin đồng chí cho tôi tiếp tục được chiến đấu”. Hành động dũng cảm của anh đã truyền thêm sức mạnh, dũng khí cho toàn khẩu đội. Không chỉ anh dũng trong chiến đấu, Đỗ Lương Bằng cũng là người luôn trân trọng tình đồng đội.
“Chính trong khói lửa chiến đấu đã rèn luyện cho mình cứng cáp hơn trước và cũng chính trong chiến đấu đã xây nên tình bạn, tình đồng chí thiêng liêng: “Long, Quang, Thanh, Ba và khẩu đội là những người bạn tốt… Mình thầm cảm ơn các bạn, các đồng chí đã giúp thêm nghị lực cho mình hoàn thành tốt nhiệm vụ. Mình cần cố gắng hơn nữa để khỏi phụ lòng tin các bạn”, anh viết. Hàng ngày, anh thường trao đổi, học tập với anh em, động viên mọi người những lúc khó khăn: “Mình gian khổ sao bằng so với đồng bào miền Nam còn gian khổ gấp trăm, ngàn lần”. Rồi khi đứng trước các đồng đội ngã xuống, anh không thể cầm nổi nước mắt, “Hôm nay tuy dành được thắng lợi nhưng nhìn hình ảnh các đồng chí bị thương và hy sinh mà không nén nổi xúc động trong lòng. Một lần nữa trong chiến đấu mình đứng trước những người đã khuất.. nguyện sẽ tiếp bước con đường đi của các đồng chí còn bỏ dở với khí phách kiên cường của người cách mạng”.
Có thể nói, tinh thần kiên trung, dũng cảm, luôn luôn lạc quan tin tưởng, chấp hành nghiêm lệnh kỷ luật của Đảng, Đoàn, cấp trên là tư tưởng xuyên suốt trong nhật ký Đỗ Lương Bằng. Nhưng nhiều trang trong nhật ký cũng cho thấy anh còn là người lãng mạn, yêu văn thơ. Anh miêu tả cảnh vật, con người rất sinh động và sâu sắc: “Mới ngày nào thôi không xa lắm, mình và đơn vị về khu vực Hoàng Mai này chiến đấu, lúc đó mình nhìn những cánh đồng bát ngát thẳng cánh cò bay, lúa đang trải màu xanh biếc thật nh những tấm thảm màu huyền diệu. Thế mà hôm nay, mình ngồi đây, trên mâm pháo nhìn ra những cánh đồng lúa ấy đã nặng trĩu bông… đã có một vài người nông dân kĩu kịt trên những gánh lúa vàng nặng trĩu…”. Anh gặp Lệ Cầu, người con gái xứ Nghệ trong hoàn cảnh đặc biệt của chiến tranh. Tình yêu giữa anh và Lệ Cầu ngày càng đằm thắm, “hãy nâng niu và gìn giữ nó như phút đầu nóng hổi”, anh tự nhủ với bản thân. “Ngồi dưới ánh đèn dầu ấm cúng, Lệ Cầu thật thà, chất phác làm sao”. Nhưng tiếc rằng “mối tình trong sáng, tươi đẹp” đó đã bị chiến tranh chia lìa. Đỗ Lương Bằng hy sinh khi đang ở tuổi 22, lứa tuổi đẹp nhất trong cuộc đời.
Ngày 10/7/1966, tốp máy bay Mỹ khoảng 10 chiếc phản lực bắn phá dữ dội cầu Hoàng Mai, Đỗ Lương Bằng lúc này là trung đội phó, đơn vị thuộc Đoàn Sông Thao đã chỉ huy đồng đội chiến đấu bắn trả ác liệt. Chiếc máy bay đi đầu bốc cháy, cùng lúc đó một loạt bom rơi nổ ngay gần trận địa, nhiều chiến sĩ bị thương nặng. Anh bị một mảnh bom làm nát chân trái, máu chảy nhiều nhưng mắt anh vẫn không rời khỏi máy bay địch, chỉ huy khẩu đội chiến đấu. Do vết thương quá nặng, cấp trên chỉ thị đưa anh về tuyến sau chữa trị. Trước lúc rời trận địa, anh vẫn dấu đau đớn động viên mọi người: “Chúc anh em ở lại chiến đấu thắng lợi, tôi sẽ khỏi, sẽ về chiến đấu cùng đồng đội”. Nhưng rồi lời hứa trở lại đã không thành, anh hy sinh bởi bị mất máu quá nhiều…
Bốn khẩu đội thuộc Đại đội 20 (Đoàn Sông Thao) được mang tên “Khẩu đội Đỗ Lương Bằng” vì đã lập được nhiều thành tích trong chiến đấu, xây dựng. Ở quê nhà, trong lễ truy điệu anh đã có 89 thanh niên tình nguyện lên đường nhập ngũ, noi gương anh quyết tâm chiến đấu, bảo vệ Tổ quốc. Hơn 3 năm trong quân ngũ, chiến đấu trên 300 trận đánh, Đỗ Lương Bằng đã cống hiến sức lực và trí tuệ của mình, chiến đấu dũng cảm góp phần cùng đồng đội bắn rơi 50 máy bay Mỹ.