A- A A+ | Chia sẻ bài viết lên facebook Chia sẻ bài viết lên twitter Chia sẻ bài viết lên google+

TUÝP ĐỰNG XÔI CỦA NGƯỜI MẸ LÀO

Hơn 30 năm trước, với tinh thần quốc tế trong sáng “Giúp bạn như thể giúp mình”, những người lính Đại Đội 1 – Tiểu đoàn 1 – Sư đoàn 968 đã không quản ngại gian khổ, hy sinh cùng với những người anh em Lào chiến đấu kiên cường làm nên những huyền thoại về người lính tình nguyện Việt Nam, góp phần làm nên thắng lợi của cách mạng Lào. Và, có một sức mạnh to lớn để làm nên chiến công vĩ đại đó chính là sự chở che, tình yêu thương, đùm bọc của nhân dân Lào dành cho các anh. Những tấm “sà lùng” (khăn quàng), “phá phe” (khăn lớn) bà con tự dệt tặng các anh quàng giữ ấm trong đêm rừng Trường Sơn; những chiếc tuýp, chiếc gùi mang lương thực và cả những giọt mồ hôi của người mẹ Lào không quản ngại vất vả tiếp tế cho bộ đội, cưu mang những đứa con Việt trên mỗi chặng đường hành quân bây giờ đã trở thành kỷ vật vô giá, hiện đang được trưng bày tại Bảo tàng Quân khu 4 càng khẳng định mối quan hệ hữu nghị Việt – Lào là mối quan hệ đặc biệt, trên tình cảm anh em ruột thịt, hiếm có trên thế giới

 Trong giai đoạn từ năm 1964 – 1968, đế quốc Mỹ tiến hành ở Lào một cuộc chiến tranh phản cách mạng toàn diện. Một trong những lo âu của bọn can thiệp Mỹ là hiệu lực chiến đấu của quân ngụy Lào và  sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng Lào dưới sự giúp đỡ của quân tình nguyện Việt Nam. Với sự kèm cặp của Mỹ, lực lượng tay sai nguỵ Lào tăng lên nhanh chóng về số lượng. Chúng liên tiếp mở những cuộc hành quân lấn chiếm Cánh đồng Chum (Bắc Lào), đường số 9 (Savanakhet – Trung Lào), Saravan, Cao nguyên Bô Lô Ven (Hạ Lào)… Tăng cường các tuyến phòng ngự trên trục đường số 9, dãy cao điểm phía đông Bô Lô Ven, Lào Ngăm… Tại đây, chúng thực hiện chính sách “gom dân”, xây dựng các đồn, bốt hòng kiểm soát hoạt động và sự phát triển của cách mạng.

Cũng trong thời gian này, Đại đội 1 – Tiểu đoàn 1 – thuộc Mặt trận Z (sau này Đoàn 968 quân tình nguyện gồm các đơn vị thuộc Bộ tư lệnh đoàn 968; lúc đầu gồm 5 tiểu đoàn bộ binh: tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3, tiểu đoàn 4, tiểu đoàn 5; 1 đại đội S4 đặc công; đại đội 5 cao xạ, đại đội 6 pháo hỗn hợp, đại đội công binh, đại đội thông tin, đại đội trinh sát, đại đội vận tải và đội điều trị 49 quân y) nhận nhiệm vụ phối thuộc cùng quân đội bạn Lào chiến đấu đánh địch ở Lào Ngăm (Saravan), Khăm Muộn, Bô lô Ven… Trong những năm 1966 -1967, cùng quân và dân bạn giữ vững và phát triển vùng giải phóng ở trung Hạ Lào, bảo vệ sườn phía Tây hành lang chiến lược. Bên cạnh đó, phối hợp với quân đội bạn giác ngộ cách mạng cho nhân dân Lào, mở đường cho lực lượng quân chủ lực. Tháng 7 năm 1967, nhận lệnh của trên, đơn vị vạch kế hoạch tỷ mỷ giải phóng bốt Noọng Pô ở Noọng Úc – Salavan – Lào.

Bốt Noọng Pô nằm trên trục đường 13 đi thị xã Saravan về Sa Nưa, Sa Phạt và sông Sê Đôn, quân ngụy Lào chốt Trung đoàn 804 với trang bị vũ khí hiện đại, chúng khống chế đe dọa nhân dân không dám sản xuất, không dám đi ra khỏi làng bản, dồn nhân dân vào 14 trại tập trung để dễ bề kiểm soát. Lúc này, lực lượng quân tình nguyện của ta phải đóng quân ở các lán trại trong rừng, hoàn cảnh thiếu thốn, đường tiếp tế lương thực khó khăn. Gian khổ, hi sinh, đó là những thử thách vô cùng lớn lao mà lực lượng quân tình nguyện Việt Namphải đối mặt hàng ngày. Hơn lúc nào hết, sức mạnh lớn lao giúp các anh chiến đấu và chiến thắng chính là những tấm lòng yêu mến của bà con dân bản, của những người mẹ Noọng Pô. Tuy bị địch khống chế gắt gao nhưng nhân dân vẫn một lòng hướng về cách mạng. Hình ảnh những người mẹ như mẹ Sinh, mẹ Kuông, những người em gái Lào tối đi ngủ muộn tranh thủ dệt thêm tấm khăn quàng cổ gửi các anh giữ ấm. Sáng sớm, khi những chú gà chưa kịp thức giấc, họ lại trở dậy đồ xôi, chuẩn bị cơm nắm, tiếp tế cho bộ đội đánh địch. Các mẹ, các chị, các em bỏ xôi, thức ăn vào tuýp rồi bất chấp hiểm nguy vượt qua bốt gác kẻ thù tiếp tế kịp thời cho bộ đội. Gặp những tình huống quá khó khăn, các mẹ, các chị tìm cách đưa những tuýp đựng thức ăn ra rẫy treo ở các cành cây gần nơi bộ đội đóng quân. Các món ăn đó cho đến bây giờ, có những người lính dù đã mãi mãi nằm lại trên chiến trường hay có người may mắn trở về vẫn theo mãi các anh nguyên vẹn hương vị món ăn và nghĩa tình của người mẹ, người em gái Lào, đó là món “chẹo” (ớt nướng dằm với muối), là “chè bong” (rêu lấy ở núi đá, gói trong lá chuối, vùi trong tro bếp nướng cho chín), “mắm pà đẹc” (món cá mắm)… ăn với xôi (người Lào ăn gạo nếp là chính) và các món ăn truyền thống của bộ đội quân tình nguyện như canh măng rừng, rau tàu bay… Những món ăn tuy hết sức giản dị, thanh đạm nhưng đã được các mẹ, các em gái Lào nuôi quân gửi gắm vào đó cả nghĩa tình yêu thương, sự dũng cảm, chấp nhận mất mát hi sinh khi vượt qua đồn bốt của địch để tiếp lương cho bộ đội Việt Nam. Trên đường tiếp tế, có những người mẹ Lào đã bị địch bắn chết ngay khi vừa mang cơm từ trong rừng trở ra, trên tay mẹ vẫn nắm chặt chiếc tuýp đựng xôi ngày mai còn kịp mang thêm cho các con. Chính sự anh dũng hi sinh của mẹ vì “các con bộ đội Việt Nam” đã góp phần tăng thêm sức mạnh cho bộ đội ta vượt mọi khó khăn, vững vàng ý chí, chắc tay súng giúp nước bạn. Không chỉ tiếp tế lương thực, các mẹ còn là “tai mắt” của cách mạng, kịp thời liên lạc thông báo với bộ đội những diễn biến từ đồn bốt địch. Nhờ đó, bộ đội ta nắm được những thông tin, chính xác kịp thời lên kế hoạch chiến đấu có hiệu quả. Với những ân tình đó, chúng ta càng hiểu hơn vì sao quân tình nguyện Việt Nam lại hết lòng giúp bạn và chấp nhận gian nan như thế.

Không phụ những tấm lòng của bà con dân bản Đường Mòn, coi bản làng như quê hương thứ hai của mình, các chiến sĩ Đại đội 1 đã xuất quân quyết tâm giải phóng Noọng Pô. Ngày 12/8/1967, sau nhiều ngày đêm lên phương án chiến đấu tỷ mỉ và hơn 2 giờ chiến đấu, ta đã tiêu diệt hoàn toàn quân địch, giải phóng 10 bản với hơn 1.000 dân thoát khỏi ách kìm kẹp. Nhân dân tự do đi lại, tự do làm ăn, xây dựng chính quyền cách mạng. Tiếng hát và những điệu múa Lăm vông lại rộn ràng khắp làng trên, xóm dưới. Tình cảm của bà con với bộ đội sư đoàn 968 đã thắm thiết lại càng gắn bó keo sơn.

10 năm chiến đấu ở chiến trường Lào, trên khắp nước bạn đều có dấu chân, những giọt mồ hôi, cả xương máu của chiến sỹ chiến sĩ Đại đội 1 – Tiểu đoàn 1 – Đoàn 968. Các anh đã hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ, đạt danh hiệu đơn vị Anh hùng LLVTND (tháng 8/1970). Và để làm nên những chiến công đó có một sức mạnh rất lớn chính từ tình yêu thương thủy chung, son sắt của nhân dân Lào nói chung, của bà con, của những người mẹ bản Noọng Pô nói riêng dành cho các anh. Bây giờ, chiếc tuýp đựng xôi của mẹ Sinh, mẹ Kuông trở thành những kỷ vật vô giá, thiêng liêng như tình yêu của người mẹ Lào dành cho các anh, những người con dù không mang nặng đẻ đau nhưng mẹ yêu quý hơn chính bản thân mình.


Tổng số điểm của bài viết là: 12 trong 12 đánh giá
Click để đánh giá bài viết

TUÝP ĐỰNG XÔI CỦA NGƯỜI MẸ LÀO

Hướng dẫn tới bảo tàng
  • Taxi

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Taxi 

  • Xe Bus

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe bus 

  • Xe Máy

    Hướng dẫn tới bảo tàng bằng Xe máy

Thống kê
Lượt truy cập hiện tại : 6
Hôm nay : 0
Tháng 06 : 398